Hình Ảnh về: Cảm nghĩ về những câu hát than thân trong văn học
Video về: Cảm nghĩ về những câu hát than thân trong văn học
Wiki về Cảm nghĩ về những câu hát than thân trong văn học
Cảm nghĩ về những câu hát than thân trong văn học -
Dạy
ĐỀ CƯƠNG
I. Giới thiệu
-Trong ca dao, bên cạnh những câu hát thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước… còn có những câu hát than thân.
Ngoài nội dung xót xa cho những số phận éo le, bất hạnh, những câu thơ ấy còn chứa đựng ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công.
Sau đây là một số bài hát tiêu biểu.
II. Thân hình
+ Câu đầu: Nước non vất vả một mình… cho con gầy?
-Hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng thường xuất hiện trong ca dao.
-Người nông dân làm lụng vất vả,… hoặc mượn hình ảnh con cò để diễn tả thân phận nhỏ bé, khốn khổ của mình.
-Nghệ thuật tương phản rất điêu luyện (Con cò nước: gợi ra một không gian bao la >< lonely: small stork body, lonely, lurking around looking for food Than stork: weak >< lên thác xuống ghềnh: chịu đựng cuộc sống gian khổ, vất vả).
Câu hỏi tu từ: Ai đổ đầy bể kia; Cho cạn ao kia, cho cò con? âm thanh ngậm ngùi, xót xa xen lẫn ai oán, căm giận. Con cò con đã cam chịu kiếp sống bé nhỏ, tầm thường, vậy mà vẫn bị những con người độc ác, vô nhân đạo cố tình đẩy vào bể đầy, ao cạn, khiến cuộc đời càng thêm cơ cực, khốn khổ.
-Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hiện ra rộng lớn sau từng câu, từng chữ, từng hình ảnh. Nội dung bài hát có tính chất tố cáo hiện thực xã hội rất cao.
+ Câu thứ hai: Tiếc phận con tằm… có ai nghe?
-Hàng loạt hình ảnh so sánh thân phận thấp hèn của người nông dân với những con vật nhỏ bé, tầm thường như con tằm, con kiến, con chim…
-Từ cảm thán thay vì được lặp lại ở đầu câu tạo nên âm hưởng xót xa, chua xót, mang nỗi buồn của một số phận hẩm hiu, bất hạnh.
-Từ láy: kiếm được bao nhiêu và từ láy phải nhấn mạnh ý nghĩa cuộc sống của người dân nghèo quá cơ cực, lầm than.
-Hình ảnh con chim mỏi cánh, tiếng cuốc kêu ra máu và câu hỏi tu từ biết hôm nay là ngày gì? Có ai nghe chưa? miêu tả những số phận lênh đênh, đầy tiếc nuối, bất bình giữa xã hội phong kiến bất công, đồi bại…
Câu thứ ba: Thân em như trái trôi…
-Phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội cũ.
-Hình ảnh so sánh: Thân hình em như trái bồng bềnh sức gợi cảm
to lớn. Những cây lá kim ven rạch, trái rung rinh theo dòng nước. Có những nét tương đồng giữa hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ trái chìm nổi chịu nhiều giông tố với số phận bị lệ thuộc hoàn toàn, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ của bản thân.
-Ý nghĩa tố cáo: Xã hội phong kiến với bao áp bức, bất công… luôn tìm cách trói buộc, dìm vai trò của người phụ nữ.
III. Kết thúc
-Những bài hát than thở giờ đã là quá khứ.
-Cuộc cách mạng đã giải phóng con người, đem lại tự do, bình đẳng cho phụ nữ trong xã hội.
-Đọc câu thơ ngậm ngùi ta càng thấm thía nỗi khổ đau của ông bà, cha mẹ ngày xưa, càng hiểu được giá trị của cuộc sống tốt đẹp hôm nay.
PHÂN CÔNG
Ca dao, dân ca là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước… mà còn là lời xót xa về những số phận bất hạnh và những hoàn cảnh éo le, cay đắng.
Ngoài ý nghĩa than thở, tủi thân, lời ca còn mang ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực, sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu thơ sau đây là những ví dụ tiêu biểu:
1. Nước non một mình vất vả,
Thân cò lên ghềnh nay xuống thác.
Ai đổ đầy bể kia,
Cho cạn ao kia, cho cò con?
2. Thương phận con tằm,
Nếu bạn không thể có đủ thức ăn, bạn phải nằm xuống.
Xấu hổ cho những con kiến nhỏ bé,
Bạn phải tìm một số thực phẩm để ăn.
Nhục hạc tránh đường mây,
Chim bay mỏi biết ngày nào.
Thương con cuốc trên trời,
Không ai lắng nghe dầu chảy máu.
3. Thân em như trái trôi,
Gió cuốn sóng, biết xô về đâu?
Cả ba câu thơ đều sử dụng thể thơ lục bát truyền thống mang âm hưởng xót xa, thương cảm cùng với những hình ảnh so sánh, ẩn dụ thường thấy trong ca dao để nói lên thân phận nhỏ nhen của những người nghèo khổ trong cộng đồng. xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, quả bần…). Đầu mỗi câu thường là một cụm từ như Anh yêu em… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được diễn đạt dưới hình thức một câu hỏi tu từ.
Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để miêu tả cuộc sống và thân phận ít nhiều của mình, bởi họ tìm thấy nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.
Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể trọn vẹn nếu thiếu đi những cánh cò lội kiếm ăn trên đồng ruộng, khe suối. Con cò gần gũi với người nông dân khi cày cấy, hái lượm. Đàn cò lần lượt tung cánh bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:
Nước non một mình vật lộn,
Thân cò lên ghềnh nay xuống thác.
Nghệ thuật tương phản tài tình trong đoạn thơ trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa bao la trời nước, con cò lẻ loi, cô độc, lang thang kiếm ăn. Thân cò vốn đã nhỏ lại càng nhỏ dần. Dẫu vậy, thân cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với muôn vàn khó khăn, ngang trái. Câu thơ như một giọng thỏ thẻ kéo dài, như một lời trách móc, than thở trước nghịch cảnh của cuộc đời.
Nhìn dáng cò gầy guộc gầy guộc lội ruộng thượng du kiếm tôm tôm, người nông dân bùi ngùi nghĩ đến thân phận mình phải chịu bao vất vả, cực nhọc và bất bình. Hỏi tại sao:
Ai đổ đầy bể kia,
Để ao kia cạn cho con gầy?
Con cò đã phải chịu số phận hẩm hiu nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh nghèo khó mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó xô đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào chân tường?
Cao hơn tư tưởng của một câu thơ đầy tủi thân, bài ca dao trên hàm chứa thái độ phản kháng, tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận trường kỳ, khổ cực của người nông dân nghèo vì sưu cao, sưu cao, vì đói nghèo, lưu manh triền miên và sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị. đối xử.
Vẫn theo lối liên tưởng như ở câu ca dao thứ nhất, câu ca dao thứ hai là ẩn dụ so sánh thân phận người nông dân với những con vật nhỏ bé tầm thường như con tằm, con kiến:
Thương phận con tằm,
Nếu bạn không thể có đủ thức ăn, bạn phải nằm xuống.
Xấu hổ cho những con kiến nhỏ bé,
Có bao nhiêu thức ăn bạn có để tìm mồi.
Thương hạc tránh đường mây,
Chim bay mỏi biết ngày nào.
Thương con cuốc trên trời,
Dù có kêu ra máu cũng không ai thèm nghe.
Đây là một bài hát về những khó khăn và bất hạnh. Thông điệp Lòng Thương Xót được lặp đi lặp lại bốn lần, diễn tả niềm tiếc thương xót xa vô hạn. Thương hại là cảm thấy thương xót cho tình trạng của chính mình và của những người khác trong cùng một hoàn cảnh.
Thương thân phận một đứa trẻ, kiếm được bao nhiêu cũng phải nằm rải mạng, xót cho những người lao động nghèo khổ bị người khác bòn rút sức lực, công đức cả đời. Thương cho những con kiến bé nhỏ phải đi kiếm mồi tím để kiếm miếng ăn, thật tội nghiệp cho nỗi khổ chung của những con người bé nhỏ cả đời làm lụng vất vả mà vẫn khốn khổ, nghèo khó. Tiếc cho sếu tránh đường mây, Chim mỏi biết lúc nào dừng, tiếc cho những kiếp phiêu bạt, nhọc nhằn kiếm sống qua ngày. Thương con cuốc giữa lưng chừng trời, Dù có khóc ra máu, có ai chạnh lòng cho những con người thấp hèn hèn mọn, suốt đời chịu những khổ đau oan uổng, không một chút ánh sáng công lý.
Bốn câu ca dao – bốn nỗi niềm. Sự lặp lại đó nhằm nhấn mạnh sự cảm thông, ngậm ngùi trước những mảnh đời cay đắng, đa đoan của những con người nghèo khổ trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi niềm khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình cảm của bài hát lại được phát triển, nâng cao.
Trong ca dao, người xưa có thói quen nhìn sự vật thường liên quan đến cảnh ngộ, số phận của mình. Họ đồng cảm với những con vật tội nghiệp, nhỏ bé (con sâu, con kiến, con cò, con vạc, con sếu trên trời, con sếu nhà, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi chúng đều có số phận giống nhau và số phận khốn khổ như tôi. Những hình ảnh ẩn dụ trong câu thơ kết hợp với lối viết tả thực làm cho nỗi lòng, cảm xúc thấm vào thìa.
Tằm ăn lá dâu, nhả tơ để con người dệt thành lụa, nhận, gấm… những y phục quý giá dành cho giới thượng lưu giàu có. Xưa là con tằm chỉ ăn lá dâu, loại lá bình thường mọc ở ruộng, sông. Và con tằm nhỏ có thể ăn bao nhiêu? Mượn hình ảnh đó, người lao động hàm ý sự bóc lột quá mức của giai cấp thống trị đối với họ. Họ đã nỗ lực rất nhiều, nhưng sự thích thú dường như không có. Điều đó dẫn đến cuộc sống kéo dài vất vả, nghèo khó và tưởng như không tìm được lối thoát.
Câu văn: Tiếc rằng sếu tránh mây, Đàn chim bay mỏi biết khi nào dừng thể hiện sự chia ly bất đắc dĩ giữa con người xa người thân, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để đòi về đồ ăn. trốn thuế trốn thuế. Con đường phía trước quá gập ghềnh và nguy hiểm. Người lau nước mắt, biệt ly bóng tăm cá, như hạc trốn mây, như chim mỏi cánh, bao giờ mới được về cố hương, cha con đoàn tụ, vợ chồng ? Người ở nhà mắt đỏ hoe thấp thỏm lo âu, chờ đợi. Trong muôn vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào lớn hơn sinh tử?
Câu cuối: Thương con cuốc giữa trời, Dù kêu ra máu ai nghe cho thấu nghĩa tho’ trích từ truyền thuyết vua Thục Đế nước mất nhà tan, hận mà chết hóa thành hoa đỗ quyên, còn gọi là như con cuốc, chim đa đa trong đêm hè kêu ríu rít đến ứa máu. Nội dung đoạn thơ này nói lên nỗi khổ đau, bất công của người nghèo. Ngay cả nỗi đau do bị áp bức bất công cũng chỉ có thể nuốt trôi vì trời cao đất dày. Có khác gì tiếng cuốc kêu khắc khoải, khắc khoải, vang giữa không trung mà chẳng ai để ý.
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương tiếc, ngậm ngùi…) tạo nên giọng điệu ngậm ngùi, mang nỗi buồn sâu lắng, xót xa cho thân phận, cho số phận. Khẽ ngân nga ta sẽ thấy câu ca dao trên như một tiếng thở dài tiếc nuối, tuyệt vọng.
Ca dao thứ ba phản ánh thân phận bất hạnh của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Những hình ảnh so sánh trong bài mang đậm tính địa phương của một vùng sông nước Nam Bộ.
Cái tên trái bần gợi lên thân phận của những người nghèo khổ. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi lên một cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa như một chiếc lọ nhỏ liên tục bị gió quật ngã. Họ hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình. Xã hội phong kiến luôn muốn dìm họ xuống, phủ nhận vai trò của họ.
Tóm lại, ba câu ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân, trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo ngày xưa là bể khổ rộng lớn vô biên. Hiện thực đen tối, tương lai đen tối, họ không biết đi về đâu. Điều đó chỉ kết thúc khi ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường, giải phóng nông dân khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp thống trị kéo dài hàng thế kỷ.
Nguồn: Vietvanhoctro.com
[box type=”note” align=”” class=”” width=””]
Dạy
ĐỀ CƯƠNG
I. Giới thiệu
-Trong ca dao, bên cạnh những câu hát thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước… còn có những câu hát than thân.
Ngoài nội dung xót xa cho những số phận éo le, bất hạnh, những câu thơ ấy còn chứa đựng ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công.
Sau đây là một số bài hát tiêu biểu.
II. Thân hình
+ Câu đầu: Nước non vất vả một mình… cho con gầy?
-Hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng thường xuất hiện trong ca dao.
-Người nông dân làm lụng vất vả,… hoặc mượn hình ảnh con cò để diễn tả thân phận nhỏ bé, khốn khổ của mình.
-Nghệ thuật tương phản rất điêu luyện (Con cò nước: gợi ra một không gian bao la >< lonely: small stork body, lonely, lurking around looking for food Than stork: weak >< lên thác xuống ghềnh: chịu đựng cuộc sống gian khổ, vất vả).
Câu hỏi tu từ: Ai đổ đầy bể kia; Cho cạn ao kia, cho cò con? âm thanh ngậm ngùi, xót xa xen lẫn ai oán, căm giận. Con cò con đã cam chịu kiếp sống bé nhỏ, tầm thường, vậy mà vẫn bị những con người độc ác, vô nhân đạo cố tình đẩy vào bể đầy, ao cạn, khiến cuộc đời càng thêm cơ cực, khốn khổ.
-Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hiện ra rộng lớn sau từng câu, từng chữ, từng hình ảnh. Nội dung bài hát có tính chất tố cáo hiện thực xã hội rất cao.
+ Câu thứ hai: Tiếc phận con tằm… có ai nghe?
-Hàng loạt hình ảnh so sánh thân phận thấp hèn của người nông dân với những con vật nhỏ bé, tầm thường như con tằm, con kiến, con chim…
-Từ cảm thán thay vì được lặp lại ở đầu câu tạo nên âm hưởng xót xa, chua xót, mang nỗi buồn của một số phận hẩm hiu, bất hạnh.
-Từ láy: kiếm được bao nhiêu và từ láy phải nhấn mạnh ý nghĩa cuộc sống của người dân nghèo quá cơ cực, lầm than.
-Hình ảnh con chim mỏi cánh, tiếng cuốc kêu ra máu và câu hỏi tu từ biết hôm nay là ngày gì? Có ai nghe chưa? miêu tả những số phận lênh đênh, đầy tiếc nuối, bất bình giữa xã hội phong kiến bất công, đồi bại…
Câu thứ ba: Thân em như trái trôi…
-Phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội cũ.
-Hình ảnh so sánh: Thân hình em như trái bồng bềnh sức gợi cảm
to lớn. Những cây lá kim ven rạch, trái rung rinh theo dòng nước. Có những nét tương đồng giữa hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ trái chìm nổi chịu nhiều giông tố với số phận bị lệ thuộc hoàn toàn, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ của bản thân.
-Ý nghĩa tố cáo: Xã hội phong kiến với bao áp bức, bất công… luôn tìm cách trói buộc, dìm vai trò của người phụ nữ.
III. Kết thúc
-Những bài hát than thở giờ đã là quá khứ.
-Cuộc cách mạng đã giải phóng con người, đem lại tự do, bình đẳng cho phụ nữ trong xã hội.
-Đọc câu thơ ngậm ngùi ta càng thấm thía nỗi khổ đau của ông bà, cha mẹ ngày xưa, càng hiểu được giá trị của cuộc sống tốt đẹp hôm nay.
PHÂN CÔNG
Ca dao, dân ca là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước… mà còn là lời xót xa về những số phận bất hạnh và những hoàn cảnh éo le, cay đắng.
Ngoài ý nghĩa than thở, tủi thân, lời ca còn mang ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực, sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu thơ sau đây là những ví dụ tiêu biểu:
1. Nước non một mình vất vả,
Thân cò lên ghềnh nay xuống thác.
Ai đổ đầy bể kia,
Cho cạn ao kia, cho cò con?
2. Thương phận con tằm,
Nếu bạn không thể có đủ thức ăn, bạn phải nằm xuống.
Xấu hổ cho những con kiến nhỏ bé,
Bạn phải tìm một số thực phẩm để ăn.
Nhục hạc tránh đường mây,
Chim bay mỏi biết ngày nào.
Thương con cuốc trên trời,
Không ai lắng nghe dầu chảy máu.
3. Thân em như trái trôi,
Gió cuốn sóng, biết xô về đâu?
Cả ba câu thơ đều sử dụng thể thơ lục bát truyền thống mang âm hưởng xót xa, thương cảm cùng với những hình ảnh so sánh, ẩn dụ thường thấy trong ca dao để nói lên thân phận nhỏ nhen của những người nghèo khổ trong cộng đồng. xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, quả bần…). Đầu mỗi câu thường là một cụm từ như Anh yêu em… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được diễn đạt dưới hình thức một câu hỏi tu từ.
Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để miêu tả cuộc sống và thân phận ít nhiều của mình, bởi họ tìm thấy nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.
Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể trọn vẹn nếu thiếu đi những cánh cò lội kiếm ăn trên đồng ruộng, khe suối. Con cò gần gũi với người nông dân khi cày cấy, hái lượm. Đàn cò lần lượt tung cánh bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:
Nước non một mình vật lộn,
Thân cò lên ghềnh nay xuống thác.
Nghệ thuật tương phản tài tình trong đoạn thơ trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa bao la trời nước, con cò lẻ loi, cô độc, lang thang kiếm ăn. Thân cò vốn đã nhỏ lại càng nhỏ dần. Dẫu vậy, thân cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với muôn vàn khó khăn, ngang trái. Câu thơ như một giọng thỏ thẻ kéo dài, như một lời trách móc, than thở trước nghịch cảnh của cuộc đời.
Nhìn dáng cò gầy guộc gầy guộc lội ruộng thượng du kiếm tôm tôm, người nông dân bùi ngùi nghĩ đến thân phận mình phải chịu bao vất vả, cực nhọc và bất bình. Hỏi tại sao:
Ai đổ đầy bể kia,
Để ao kia cạn cho con gầy?
Con cò đã phải chịu số phận hẩm hiu nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh nghèo khó mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó xô đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào chân tường?
Cao hơn tư tưởng của một câu thơ đầy tủi thân, bài ca dao trên hàm chứa thái độ phản kháng, tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận trường kỳ, khổ cực của người nông dân nghèo vì sưu cao, sưu cao, vì đói nghèo, lưu manh triền miên và sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị. đối xử.
Vẫn theo lối liên tưởng như ở câu ca dao thứ nhất, câu ca dao thứ hai là ẩn dụ so sánh thân phận người nông dân với những con vật nhỏ bé tầm thường như con tằm, con kiến:
Thương phận con tằm,
Nếu bạn không thể có đủ thức ăn, bạn phải nằm xuống.
Xấu hổ cho những con kiến nhỏ bé,
Có bao nhiêu thức ăn bạn có để tìm mồi.
Thương hạc tránh đường mây,
Chim bay mỏi biết ngày nào.
Thương con cuốc trên trời,
Dù có kêu ra máu cũng không ai thèm nghe.
Đây là một bài hát về những khó khăn và bất hạnh. Thông điệp Lòng Thương Xót được lặp đi lặp lại bốn lần, diễn tả niềm tiếc thương xót xa vô hạn. Thương hại là cảm thấy thương xót cho tình trạng của chính mình và của những người khác trong cùng một hoàn cảnh.
Thương thân phận một đứa trẻ, kiếm được bao nhiêu cũng phải nằm rải mạng, xót cho những người lao động nghèo khổ bị người khác bòn rút sức lực, công đức cả đời. Thương cho những con kiến bé nhỏ phải đi kiếm mồi tím để kiếm miếng ăn, thật tội nghiệp cho nỗi khổ chung của những con người bé nhỏ cả đời làm lụng vất vả mà vẫn khốn khổ, nghèo khó. Tiếc cho sếu tránh đường mây, Chim mỏi biết lúc nào dừng, tiếc cho những kiếp phiêu bạt, nhọc nhằn kiếm sống qua ngày. Thương con cuốc giữa lưng chừng trời, Dù có khóc ra máu, có ai chạnh lòng cho những con người thấp hèn hèn mọn, suốt đời chịu những khổ đau oan uổng, không một chút ánh sáng công lý.
Bốn câu ca dao – bốn nỗi niềm. Sự lặp lại đó nhằm nhấn mạnh sự cảm thông, ngậm ngùi trước những mảnh đời cay đắng, đa đoan của những con người nghèo khổ trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi niềm khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình cảm của bài hát lại được phát triển, nâng cao.
Trong ca dao, người xưa có thói quen nhìn sự vật thường liên quan đến cảnh ngộ, số phận của mình. Họ đồng cảm với những con vật tội nghiệp, nhỏ bé (con sâu, con kiến, con cò, con vạc, con sếu trên trời, con sếu nhà, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi chúng đều có số phận giống nhau và số phận khốn khổ như tôi. Những hình ảnh ẩn dụ trong câu thơ kết hợp với lối viết tả thực làm cho nỗi lòng, cảm xúc thấm vào thìa.
Tằm ăn lá dâu, nhả tơ để con người dệt thành lụa, nhận, gấm… những y phục quý giá dành cho giới thượng lưu giàu có. Xưa là con tằm chỉ ăn lá dâu, loại lá bình thường mọc ở ruộng, sông. Và con tằm nhỏ có thể ăn bao nhiêu? Mượn hình ảnh đó, người lao động hàm ý sự bóc lột quá mức của giai cấp thống trị đối với họ. Họ đã nỗ lực rất nhiều, nhưng sự thích thú dường như không có. Điều đó dẫn đến cuộc sống kéo dài vất vả, nghèo khó và tưởng như không tìm được lối thoát.
Câu văn: Tiếc rằng sếu tránh mây, Đàn chim bay mỏi biết khi nào dừng thể hiện sự chia ly bất đắc dĩ giữa con người xa người thân, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để đòi về đồ ăn. trốn thuế trốn thuế. Con đường phía trước quá gập ghềnh và nguy hiểm. Người lau nước mắt, biệt ly bóng tăm cá, như hạc trốn mây, như chim mỏi cánh, bao giờ mới được về cố hương, cha con đoàn tụ, vợ chồng ? Người ở nhà mắt đỏ hoe thấp thỏm lo âu, chờ đợi. Trong muôn vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào lớn hơn sinh tử?
Câu cuối: Thương con cuốc giữa trời, Dù kêu ra máu ai nghe cho thấu nghĩa tho’ trích từ truyền thuyết vua Thục Đế nước mất nhà tan, hận mà chết hóa thành hoa đỗ quyên, còn gọi là như con cuốc, chim đa đa trong đêm hè kêu ríu rít đến ứa máu. Nội dung đoạn thơ này nói lên nỗi khổ đau, bất công của người nghèo. Ngay cả nỗi đau do bị áp bức bất công cũng chỉ có thể nuốt trôi vì trời cao đất dày. Có khác gì tiếng cuốc kêu khắc khoải, khắc khoải, vang giữa không trung mà chẳng ai để ý.
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương tiếc, ngậm ngùi…) tạo nên giọng điệu ngậm ngùi, mang nỗi buồn sâu lắng, xót xa cho thân phận, cho số phận. Khẽ ngân nga ta sẽ thấy câu ca dao trên như một tiếng thở dài tiếc nuối, tuyệt vọng.
Ca dao thứ ba phản ánh thân phận bất hạnh của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Những hình ảnh so sánh trong bài mang đậm tính địa phương của một vùng sông nước Nam Bộ.
Cái tên trái bần gợi lên thân phận của những người nghèo khổ. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi lên một cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa như một chiếc lọ nhỏ liên tục bị gió quật ngã. Họ hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình. Xã hội phong kiến luôn muốn dìm họ xuống, phủ nhận vai trò của họ.
Tóm lại, ba câu ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân, trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo ngày xưa là bể khổ rộng lớn vô biên. Hiện thực đen tối, tương lai đen tối, họ không biết đi về đâu. Điều đó chỉ kết thúc khi ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường, giải phóng nông dân khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp thống trị kéo dài hàng thế kỷ.
Nguồn: Vietvanhoctro.com
[/box]
#Cảm #nghĩ #về #những #câu #hát #thân #trong #văn #học
#Cảm #nghĩ #về #những #câu #hát #thân #trong #văn #học
[rule_1_plain]